Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn là gì? Các công bố khoa học về Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn

Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn (NSCLC - eoic non-small cell lung cancer) là một loại ung thư phổi phổ biến. Giai đoạn muộn của ung thư phổi không ...

Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn (NSCLC - eoic non-small cell lung cancer) là một loại ung thư phổi phổ biến. Giai đoạn muộn của ung thư phổi không tế bào nhỏ được chia thành hai giai đoạn là giai đoạn III và giai đoạn IV.

Giai đoạn III: Ung thư đã lan ra ngoài phổi và có thể lan sang các cơ quan lân cận như màng phổi, mạch máu, mạch bạch huyết hoặc hạch bạch huyết. Ung thư giai đoạn này đã điều trị được phân loại là không thể vô hiệu hóa đầy đủ.

Giai đoạn IV: Ung thư đã lan xa và ảnh hưởng đến các cơ quan khác trong cơ thể như não, xương, gan hoặc một số cơ quan khác xa phổi. Đây là giai đoạn cuối cùng của ung thư phổi và có thể gây ra các triệu chứng nặng nề và chiếm tỷ lệ sống sót thấp hơn.
Xin lỗi vì lời giải trước đó chưa cung cấp đủ thông tin. Dưới đây là một giải thích chi tiết hơn về giai đoạn III và giai đoạn IV của ung thư phổi không tế bào nhỏ:

Giai đoạn III của ung thư phổi không tế bào nhỏ:

1. Giai đoạn IIIA: Ung thư đã lan ra các mạch chính hoặc phụ của phổi hoặc đã lan sang màng phổi (màng bên ngoài của phổi) hoặc có chứng bệnh nhưng không ảnh hưởng đến các cơ quan khác.

2. Giai đoạn IIIB: Ung thư đã lan ra các cơ quan lân cận khác như cơ, gân, cơ quan nội tạng, mạch bạch huyết hoặc hạch bạch huyết gần phổi.

Giai đoạn IV của ung thư phổi không tế bào nhỏ:

1. Giai đoạn IVA: Ung thư đã lan ra các cơ quan ở phần trên cơ thể, chẳng hạn như não, gan, xương, hoặc đã lan ra các mạch bạch huyết ngoại vi (gây chứng bệnh trong nhiều bộ phận khác nhau).

2. Giai đoạn IVB: Ung thư đã lan xa cơ thể, gây chứng bệnh trong nhiều cơ quan khác nhau, thường là một loại ung thư tiến triển nhanh và khó điều trị.

Giai đoạn muộn của ung thư phổi không tế bào nhỏ thường được chẩn đoán khi ung thư đã lan rộng xa phổi và ảnh hưởng đến các cơ quan khác trong cơ thể. Đây là giai đoạn nguy hiểm và thường xuyên cần điều trị bằng phương pháp tổng hợp, bao gồm phẫu thuật, hóa trị, điều trị bằng tia X và/hoặc các phương pháp mới điều trị như liệu pháp tiếp tế tế bào và kháng thể.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn":

Nghiên cứu Giai đoạn III về Erlotinib kết hợp với Cisplatin và Gemcitabine trong Ung thư Phổi Không Tế Bào Nhỏ Giai Đoạn Muộn: Thử Nghiệm Điều Tra Ung Thư Phổi Tarceva Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 25 Số 12 - Trang 1545-1552 - 2007
Mục đích

Erlotinib là một chất ức chế mạnh mẽ của thụ thể tyrosine kinase yếu tố tăng trưởng biểu bì, có hoạt động chống khối u khi sử dụng một mình. Ở giai đoạn tiền lâm sàng, erlotinib đã tăng cường tính độc tế bào của hóa trị. Thử nghiệm giai đoạn III này, ngẫu nhiên, mù đôi, kiểm soát giả dược, đa trung tâm, đánh giá hiệu quả và độ an toàn của erlotinib kết hợp với cisplatin và gemcitabine như là liệu pháp điều trị đầu tay cho ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giai đoạn muộn.

Bệnh nhân và Phương pháp

Bệnh nhân nhận erlotinib (150 mg/ngày) hoặc giả dược, kết hợp với tối đa sáu chu kỳ hóa trị 21 ngày (gemcitabine 1.250 mg/m2 vào ngày 1 và 8, cisplatin 80 mg/m2 vào ngày 1). Điểm cuối chính là sống sót toàn bộ (OS). Các điểm cuối thứ cấp bao gồm thời gian đến tiến triển bệnh (TTP), tỷ lệ đáp ứng (RR), thời gian đáp ứng và chất lượng cuộc sống (QoL).

Kết quả

Tổng cộng có 1.172 bệnh nhân được thu nhận. Các đặc điểm nhân khẩu học và bệnh lý ban đầu được cân bằng khá tốt. Không có sự khác biệt về OS (tỷ lệ nguy hiểm, 1.06; trung vị, 43 so với 44.1 tuần cho nhóm erlotinib và giả dược, tương ứng), TTP, RR, hoặc QoL giữa các nhánh điều trị. Trong một nhóm nhỏ bệnh nhân chưa bao giờ hút thuốc, OS và sự sống sót không tiến triển đã tăng lên trong nhóm erlotinib; không tìm thấy nhóm phụ nào khác có khả năng hưởng lợi nhiều hơn. Erlotinib kết hợp với hóa trị nói chung được dung nạp tốt; tỷ lệ tác dụng phụ tương tự ở cả hai nhánh, ngoại trừ sự gia tăng phát ban và tiêu chảy với erlotinib (thường ở mức độ nhẹ).

Kết luận

Erlotinib kết hợp với cisplatin và gemcitabine đồng thời không cho thấy lợi ích về sống sót so với hóa trị liệu đơn thuần ở bệnh nhân NSCLC giai đoạn muộn chưa từng hóa trị.

NGHIÊN CỨU TÌNH TRẠNG ĐỘT BIẾN T790M TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN MUỘN KHÁNG ĐIỀU TRỊ ĐÍCH EGFR THẾ HỆ 1, 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá tỷ lệ đột biến T790M và phân tích mối liên quan trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn tiến triển sau điều trị thuốc kháng tyrosine kinase (TKI) EGFR thế hệ 1, 2 tại bệnh viện K từ 01/2017 đến 05/2022. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu kết hợp tiến cứu 85 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn kháng điều trị đích EGFR thế hệ 1, 2 chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện K từ 01/2017 đến 05/2022. Kết quả: Tỷ lệ đột biến T790M thứ phát gặp 46/85 bệnh nhân nghiên cứu (chiếm 54,1%). Tỷ lệ đột biến T790M cao hơn ở nhóm thời gian sống thêm bệnh không tiến triển > 6 tháng, tuy nhiên khác biệt có ý nghĩa thống kê. Không có mối liên quan giữa tỷ lệ đột biến T790M thứ phát và các yếu tố nhóm tuổi, giới tính, di căn não, loại TKIs, loại đột biến EGFR. Kết luận: Tỷ lệ đột biến T790M thứ phát gặp 54,1% trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến EGFR điều trị bước 1 kháng tyrosine kinase thế hệ 1, 2.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #kháng TKIs #T790M
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DUY TRÌ DOCETAXEL TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN MUỘN TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU NGHỆ AN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả, độc tính của phác đồ Docetaxel duy trì trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn tại BVUBNA. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi tiến cứu trên 47 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộnđược điều trị duy trì Docetaxel sau khi điều trị bước 1 bằng phác đồ hóa trị bộ đôi đạt đáp ứng hoặc bệnh ổn định tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An từ tháng 1/2016 đến tháng 8/2020. Kết quả: Tuổi TB của nhóm nghiên cứu là 62,5 ± 7,06; Tỷ lệ nam/ nữ 3,7/1. Có 1BN đáp ứng hoàn toàn (2,3%); 34%  đáp ứng 1 phần; 38,3% bệnh ổn định. Thời gian sống thêm không tiến triển 9.0± 0.4 tháng, thời gian sống thêm toàn bộ 18,7 tháng. Các tác dụng không mong muốn: Giảm huyết sắc tố 78.7%, giảm bạch cầu là 46.7%, giảm bạch cầu có sốt là 17,1% trong đó 4.3% ở độ 3. Tăng men gan (21,3%), Nôn và buồn nôn (27.6%). Hầu hết ở độ 1- 2. Kết luận: Điều trị Docetaxel duy trì cho hiệu quả cao và dung nạp thuốc tốt ở bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn muộn
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn #Docetaxel duy trì
NGHIÊN CỨU SỐNG THÊM VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚC 1 THUỐC ỨC CHẾ TYROSINE KINASE THẾ HỆ 1 Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN CỦA PHỔI GIAI ĐOẠN MUỘN TRÊN 60 TUỔI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Mục tiêu: đánh giá sống thêm và các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống thêm trong điều trị bước 1 bệnh nhân trên 60 tuổi UTPKTBN giai đoạn tiến xa có đột biến EGFR bằng thuốc ức chế tyrosine kinase thế hệ 1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả trên 97 bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn tiến xa tuổi >60 có đột biến gen EGFR được điều trị bước 1 với Gefitinib hoặc Erlotinib theo dõi đánh giá đáp ứng, thời gian sống thêm sau mỗi 2-3 tháng. Kết quả nghiên cứu: tỷ lệ đáp ứng toàn bộ là 66%, tỷ lệ kiểm soát bệnh là 85,6%. Trung vị thời gian sống thêm bệnh không tiến triển là 11,6 ±.4.8 tháng, trung vị thời gian sống thêm toàn bộ là 25.7 ± 4.9 tháng. Di căn não ảnh hưởng có ý nghĩa đến sống thêm toàn bộ. Kết luận: Thuốc Gefitinib và Erlotinib giúp kép dài thời gian sống thêm cho bệnh nhân UTPKTBN > 60 tuổi có đột biến EGFR.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #Bệnh nhân cao tuổi #đột biến gen EGFR #Gefitinib #Erlotinib #sống thêm
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHÁC ĐỒ PACLITAXEL – CARBOPLATIN TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN MUỘN KHÁNG THUỐC EGFR TYROSINE KINASE THẾ HỆ 1, 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng tỷ lệ đáp ứng của phác đồ paclitaxel – carboplatin trong điều trị nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn kháng điều trị đích EGFR thế hệ 1, 2 không có đột biến T790M tại bệnh viện K từ 01/2017 đến 05/2022. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu kết hợp tiến cứu 55 bệnh nhân ung thư ung thư phổi biểu mô vảy giai đoạn muộn được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện K từ 01/2017 đến 05/2022. Kết quả: Đa phần các bệnh nhân điều trị 100% liều theo phác đồ. Số chu kì hóa trị trung bình là 5,7. Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ đạt 47,3%. Tỷ lệ bệnh kiểm soát là 74,5%. Thể trạng là yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ đáp ứng của phác đồ, ECOG 0 có tỷ lệ đáp ứng toàn bộ cao hơn so với ECOG 1, khác biệt có ý nghĩa thống kê. Về đáp ứng cơ năng, đa phần bệnh nhân có cải thiện triệu chứng với 63,6%. Kết luận: Phác đồ paclitaxel-carboplatin là lựa chọn điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn sau kháng thuốc ức chế tyrosine kinase không có đột biến T790M.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #paclitaxel-carboplatin #kháng thứ phát TKIs.
NGHIÊN CỨU SỐNG THÊM VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TRONG ĐIỀU TRỊ GEFITINIB BƯỚC MỘT UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN MUỘN CÓ ĐỘT BIẾN EGFR
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá sống thêm và các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống thêm trong điều trị bước một Gefitinib bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn có đột biến EGFR.  Đối tượng nghiên cứu: 69 người bệnh được điều trị bằng Gefitinib 250 mg/ngày cho đến khi bệnh tiến triển hoặc độc tính không dung nạp được. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng chung 85,5%, tỷ lệ kiểm soát bệnh 94,2%. Thời gian sống bệnh không tiến triển 12,6 ± 1,1 tháng; thời gian sống toàn bộ 21,8 ± 2,5. Chỉ số toàn trạng và loại đột biến gen EGFR ảnh hưởng có ý nghĩa đến thời gian sống thêm bệnh không tiến triển.
#ung thư phổi không tế bào nhỏ #Gefitinib
13. Kết quả điều trị afatinib bước 1, liều khởi trị 30 mg/ngày trên ung thư phổi không tế bào nhỏ, giai đoạn muộn, có đột biến EGFR
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 176 Số 3 - Trang 105-113 - 2024
Afatinib là một thuốc ức chế tyrosine kinase được bộ y tế phê duyệt để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) giai đoạn muộn. Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn IIIC/IV (AJCC 8th), mô học là ung thư biểu mô tuyến, có đột biến EGFR, điều trị bằng afatinib khởi trị 30 mg/ngày, tại Bệnh viện K từ 4/2018 đến 10/2023 nhằm mục tiêu đánh giá đáp ứng, sống thêm không bệnh tiến triển và tác dụng không mong muốn. Kết quả đạt được tỷ lệ đáp ứng là 76,9%, kiểm soát bệnh là 94%. Trung vị thời gian sống thêm không bệnh tiến triển đạt 11,9 tháng. Tác dụng không mong muốn ở tất cả mức độ lần lượt là: phát ban (29,0%), viêm miệng (11,1%), viêm quanh móng (19,6%), tiêu chảy (39,3%), tăng men gan (7,6%). Tác dụng ngoại ý độ 3 < 2% dân số nghiên cứu và không có độ 4. Điều trị afatinib bước 1, liều khởi trị 30mg/ngày đem lại lợi ích tốt về đáp ứng, trung vị sống thêm không bệnh tiến triển với tác dụng ngoại ý thấp.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #giai đoạn muộn #đột biến EGFR #afatinib #liều 30mg
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN MUỘN KHÁNG ĐIỀU TRỊ ĐÍCH EGFR THẾ HỆ 1, 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Mô tả triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn tiến triển sau điều trị thuốc kháng tyrosine kinase (TKIS) EGFR thế hệ 1, 2 tại bệnh viện K từ 01/2017 đến 05/2022. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu kết hợp tiến cứu 85 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn kháng điều trị đích EGFR thế hệ 1, 2 chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện K từ 01/2017 đến 05/2022. Kết quả: Tỷ lệ nam giới chiếm 50,9%, tuổi trung bình 58,2 ± 8,2 tuổi. Tỷ lệ bệnh nhân có liên quan hút thuốc lá chiếm 40% và tiền sử bệnh lý phổi tắc nghẽn mạn tính chiếm 23,6%. Triệu chứng lâm sàng thường gặp ung thư phổi giai đoạn muộn thường gặp ho, đau ngực và khó thở, chiếm lần lượt 80%; 74,5% và 60%. Thể trạng ECOG 1 chiếm 44,5%. Tần suất di căn hay gặp vị trí di căn xương (chiếm 67,3%), tiếp theo di căn phổi đối bên (63,6%), và màng phổi, màng tim (chiếm 58,2%). Có 64,7% bệnh nhân tiến triển vị trí u phổi và hạch ban đầu. Đa phần bệnh nhân được sinh thiết lại vị trí u phổi (chiếm 48,2%), dịch màng phổi (17,6%) tại thời điểm tiến triển. Kết luận: Ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến EGFR thường gặp tuổi trung niên, không hút thuốc. Triệu chứng thường gặp là ho, đau ngực và khó thở, với tần suất hay gặp di căn xương và phổi đối bên tại thời điểm tiến triển thuốc kháng EGFR thế hệ 1, 2.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #giai đoạn muộn #kháng TKIs
Nghiên cứu pha I/II về dược động học và dược gen của calcitriol kết hợp với cisplatin và docetaxel trong ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn Dịch bởi AI
Cancer Chemotherapy and Pharmacology - Tập 71 - Trang 1173-1182 - 2013
Các nghiên cứu tiền lâm sàng đã chứng minh sự hiệp đồng ức chế sinh sản của 1,25-D3 (calcitriol) với cisplatin. Mục tiêu của nghiên cứu pha I/II này là xác định liều khuyến cáo cho pha II (RP2D) của 1,25-D3 kết hợp với cisplatin và docetaxel cũng như hiệu quả của nó trong ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn. Các bệnh nhân được tuyển chọn từ 18 tuổi trở lên, có điểm hiệu suất (PS) 0–1 và chức năng cơ quan bình thường. Trong phần pha I, các bệnh nhân nhận được liều tăng dần của 1,25-D3 qua đường tĩnh mạch mỗi 21 ngày trước khi điều trị docetaxel 75 mg/m2 và cisplatin 75 mg/m2 theo thiết kế chuẩn 3 + 3, nhằm mục tiêu tỷ lệ độc tính giới hạn liều (DLT) <33%. Các mức liều của 1,25-D3 là 30, 45, 60 và 80 mcg/m2. Một thiết kế hai giai đoạn được áp dụng cho phần pha II. Chúng tôi đã tương quan các tagSNP CYP24A1 với kết quả lâm sàng và dược động học của 1,25-D3. Tổng cộng có 34 bệnh nhân đã được ghi danh. Tại liều 80 mcg/m2, 2/4 bệnh nhân gặp DLT ở mức độ 4 là giảm bạch cầu trung tính. Không phát hiện tình trạng tăng calci huyết. RP2D của 1,25-D3 là 60 mcg/m2. Trong số 20 bệnh nhân pha II có thể đánh giá, có 2 phản ứng xác nhận, 4 phản ứng một phần chưa xác nhận (PR), và 9 bệnh ổn định (SD). Thời gian trung bình đến tiến triển bệnh là 5.8 tháng (95% CI 3.4, 6.5), và thời gian sống sót chung trung bình 8.7 tháng (95% CI 7.6, 39.4). SNP CYP24A1 rs3787554 (C > T) tương quan với tiến triển bệnh (P = 0.03) và SNP CYP24A1 rs2762939 (C > G) có xu hướng liên quan đến PR/SD (P = 0.08). Không có mối liên hệ giữa dược động học của 1,25-D3 và các SNP CYP24A1. RP2D của 1,25-D3 kết hợp với docetaxel và cisplatin là 60 mcg/m2 mỗi 21 ngày. Mục tiêu được xác định trước về tỉ lệ phản ứng xác nhận 50% không đạt được trong nghiên cứu pha II. Các SNP chức năng trong CYP24A1 có thể cung cấp thông tin cho các nghiên cứu trong tương lai nhằm cá nhân hóa điều trị bằng 1,25-D3.
#calcitriol #cisplatin #docetaxel #ung thư phổi #CYP24A1 #dược động học #dược gen
Sự khác biệt về sự sống còn và các yếu tố tiên lượng giữa những người hút thuốc và những người không hút thuốc với ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn Dịch bởi AI
International Journal of Clinical Oncology - Tập 18 - Trang 17-25 - 2011
Mục tiêu của chúng tôi là điều tra xem mối liên hệ giữa việc hút thuốc và sự sống còn có ý nghĩa hay không khi đã điều chỉnh cho các yếu tố tiên lượng bao gồm việc sử dụng thuốc ức chế tyrosine kinase yếu tố tăng trưởng biểu bì và Điểm Tiên lượng Glasgow, một điểm đã được thiết lập cho viêm, và để khám phá các yếu tố tiên lượng. Chúng tôi đã phân tích 244 bệnh nhân bị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB hoặc IV trong một cơ sở dữ liệu, chỉ bao gồm những bệnh nhân ngoại trú nhận hóa trị và có tình trạng hiệu suất là số không. Trong số 244 bệnh nhân, 170 người đã qua đời và thời gian theo dõi trung bình cho 74 bệnh nhân sống sót là 12,0 tháng. Trong phân tích hồi quy Cox đa biến, những người hút thuốc (tỷ lệ rủi ro so với người không hút thuốc: 1.67, P < 0.01), giai đoạn IV (tỷ lệ rủi ro so với IIIB: 1.72, P < 0.01), và mức độ protein phản ứng C tăng cao (tỷ lệ rủi ro mỗi 1 mg/dL tăng: 1.08, P < 0.01) có liên quan đáng kể với sự sống còn ngắn hơn. Mối liên hệ giữa sự sống còn và việc hút thuốc là có ý nghĩa, ngay cả sau khi điều chỉnh cho Điểm Tiên lượng Glasgow và các phác đồ hóa trị (tỷ lệ rủi ro: 1.72, P = 0.02). Ở những người không hút thuốc, số lượng bạch cầu trung tính tăng lên là một yếu tố quyết định chính của sự sống còn ngắn hơn và bài kiểm tra tương tác giữa việc hút thuốc và số lượng bạch cầu trung tính là có ý nghĩa (tỷ lệ rủi ro mỗi 1,000/mm3 tăng cho người hút thuốc: 1.01; tỷ lệ rủi ro mỗi 1,000/mm3 tăng cho người không hút thuốc: 1.44, P cho sự tương tác < 0.01). Các yếu tố đã biết như đáp ứng điều trị hoặc quá trình viêm không phải là nguyên nhân dẫn đến việc bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa không có tiền sử hút thuốc lại có khả năng sống sót tốt hơn so với những người đã hút thuốc.
#ung thư phổi không tế bào nhỏ #hút thuốc #yếu tố tiên lượng #sống sót #protein phản ứng C #Điểm Tiên lượng Glasgow
Tổng số: 20   
  • 1
  • 2