Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn là gì? Các công bố khoa học về Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn
Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn (NSCLC - eoic non-small cell lung cancer) là một loại ung thư phổi phổ biến. Giai đoạn muộn của ung thư phổi không ...
Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn (NSCLC - eoic non-small cell lung cancer) là một loại ung thư phổi phổ biến. Giai đoạn muộn của ung thư phổi không tế bào nhỏ được chia thành hai giai đoạn là giai đoạn III và giai đoạn IV.
Giai đoạn III: Ung thư đã lan ra ngoài phổi và có thể lan sang các cơ quan lân cận như màng phổi, mạch máu, mạch bạch huyết hoặc hạch bạch huyết. Ung thư giai đoạn này đã điều trị được phân loại là không thể vô hiệu hóa đầy đủ.
Giai đoạn IV: Ung thư đã lan xa và ảnh hưởng đến các cơ quan khác trong cơ thể như não, xương, gan hoặc một số cơ quan khác xa phổi. Đây là giai đoạn cuối cùng của ung thư phổi và có thể gây ra các triệu chứng nặng nề và chiếm tỷ lệ sống sót thấp hơn.
Xin lỗi vì lời giải trước đó chưa cung cấp đủ thông tin. Dưới đây là một giải thích chi tiết hơn về giai đoạn III và giai đoạn IV của ung thư phổi không tế bào nhỏ:
Giai đoạn III của ung thư phổi không tế bào nhỏ:
1. Giai đoạn IIIA: Ung thư đã lan ra các mạch chính hoặc phụ của phổi hoặc đã lan sang màng phổi (màng bên ngoài của phổi) hoặc có chứng bệnh nhưng không ảnh hưởng đến các cơ quan khác.
2. Giai đoạn IIIB: Ung thư đã lan ra các cơ quan lân cận khác như cơ, gân, cơ quan nội tạng, mạch bạch huyết hoặc hạch bạch huyết gần phổi.
Giai đoạn IV của ung thư phổi không tế bào nhỏ:
1. Giai đoạn IVA: Ung thư đã lan ra các cơ quan ở phần trên cơ thể, chẳng hạn như não, gan, xương, hoặc đã lan ra các mạch bạch huyết ngoại vi (gây chứng bệnh trong nhiều bộ phận khác nhau).
2. Giai đoạn IVB: Ung thư đã lan xa cơ thể, gây chứng bệnh trong nhiều cơ quan khác nhau, thường là một loại ung thư tiến triển nhanh và khó điều trị.
Giai đoạn muộn của ung thư phổi không tế bào nhỏ thường được chẩn đoán khi ung thư đã lan rộng xa phổi và ảnh hưởng đến các cơ quan khác trong cơ thể. Đây là giai đoạn nguy hiểm và thường xuyên cần điều trị bằng phương pháp tổng hợp, bao gồm phẫu thuật, hóa trị, điều trị bằng tia X và/hoặc các phương pháp mới điều trị như liệu pháp tiếp tế tế bào và kháng thể.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn":
Erlotinib là một chất ức chế mạnh mẽ của thụ thể tyrosine kinase yếu tố tăng trưởng biểu bì, có hoạt động chống khối u khi sử dụng một mình. Ở giai đoạn tiền lâm sàng, erlotinib đã tăng cường tính độc tế bào của hóa trị. Thử nghiệm giai đoạn III này, ngẫu nhiên, mù đôi, kiểm soát giả dược, đa trung tâm, đánh giá hiệu quả và độ an toàn của erlotinib kết hợp với cisplatin và gemcitabine như là liệu pháp điều trị đầu tay cho ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giai đoạn muộn.
Bệnh nhân nhận erlotinib (150 mg/ngày) hoặc giả dược, kết hợp với tối đa sáu chu kỳ hóa trị 21 ngày (gemcitabine 1.250 mg/m2 vào ngày 1 và 8, cisplatin 80 mg/m2 vào ngày 1). Điểm cuối chính là sống sót toàn bộ (OS). Các điểm cuối thứ cấp bao gồm thời gian đến tiến triển bệnh (TTP), tỷ lệ đáp ứng (RR), thời gian đáp ứng và chất lượng cuộc sống (QoL).
Tổng cộng có 1.172 bệnh nhân được thu nhận. Các đặc điểm nhân khẩu học và bệnh lý ban đầu được cân bằng khá tốt. Không có sự khác biệt về OS (tỷ lệ nguy hiểm, 1.06; trung vị, 43 so với 44.1 tuần cho nhóm erlotinib và giả dược, tương ứng), TTP, RR, hoặc QoL giữa các nhánh điều trị. Trong một nhóm nhỏ bệnh nhân chưa bao giờ hút thuốc, OS và sự sống sót không tiến triển đã tăng lên trong nhóm erlotinib; không tìm thấy nhóm phụ nào khác có khả năng hưởng lợi nhiều hơn. Erlotinib kết hợp với hóa trị nói chung được dung nạp tốt; tỷ lệ tác dụng phụ tương tự ở cả hai nhánh, ngoại trừ sự gia tăng phát ban và tiêu chảy với erlotinib (thường ở mức độ nhẹ).
Erlotinib kết hợp với cisplatin và gemcitabine đồng thời không cho thấy lợi ích về sống sót so với hóa trị liệu đơn thuần ở bệnh nhân NSCLC giai đoạn muộn chưa từng hóa trị.
- 1
- 2